Táo bón là hiện tượng rất thường gặp, hầu hết ai cũng đã từng bị táo bón. Tình trạng này có nguyên nhân từ đâu, và làm thế nào để thoát khỏi căn bệnh khó chịu này?
1. Thế nào là táo bón
Táo bón là một trong những triệu chứng thường gặp của hệ tiêu hóa (tiêu chảy, táo bón,chán ăn). Cơ chế do sự di chuyển của phân hoặc sự bài xuất của phân bị rối loạn và một số nguyên nhân khác như: sự bất thường ở các cơ quan tiêu hóa hoặc có sự rối loạn các hormon, thần kinh ruột.
Chỉ tiêu để đánh giá táo bón thường dùng là tần số đại tiện ít hơn 3 lần đi tiêu mỗi tuần và/hoặc lượng phân trung bình ít hơn 30g/ngày (bình thường 100 – 200 g/ngày đối với người lớn).
2. Sinh lý ruột
Ruột già gồm có manh tràng, đại tràng lên, đại tràng ngang, đại tràng xuống, đại tràng sigma và trực tràng. Chức năng của ruột già là hấp thu nước và chất điện giải từ dưỡng trấp và tích trữ phân cho đến khi phân được tống thoát.
Hình ảnh cấu tạo ruột già
1. Các vận động của ruột già
Vận động nhào trộn: Ruột già được chia thành các đoạn giống như các túi. Trong lòng ruột, dưỡng trấp được nhào trộn qua lại, thay đổi tiếp xúc với niêm mạc ruột già.
Nhờ vậy trong 1000 ml dưỡng trấp từ ruột non xuống ruột già chỉ có 80 – 150 ml là không được hấp thu và được đưa ra ngoài dưới dạng phân.
Nhu động: Các sóng nhu động có tác dụng đẩy dưỡng trấp dọc theo ruột già với tốc độ rất chậm (5 cm/giờ). Có khi phải mất 48 giờ để dưỡng trấp đi qua hết ruột già.
Vận động toàn thể: Khoảng 3 – 4 lần trong ngày có các vận động toàn thể đẩy nhanh dưỡng trấp về phía trực tràng.
2. Tống tháo phân
Thông thường trực tràng không có phân vì giữa ruột sigma và trực tràng có một cơ thắt (ở cách hậu môn khoảng 20 cm).
Khi các vận động toàn thể đẩy phân vào trực tràng, người ta muốn đi đại tiện do phản xạ co bóp của trực tràng và giãn cơ thắt hậu môn.
Sự đẩy liên tục của phân qua hậu môn bị cản lại do sự co thắt trương lực của các cơ hậu môn. Có hai cơ thắt hậu môn: cơ thắt trong là cơ vòng và cơ thắt ngoài bao quanh cơ thắt trong là cơ vân. Cơ vân do dây thần kinh thẹn chi phối, tức là chịu sự kiểm soát có ý thức.
Hình ảnh tống tháo phân
Các phản xạ đại tiện gồm:
+ Phản xạ nội sinh: khi phân đi vào trực tràng, thành trực tràng bị căng ra, các tín hiệu kích thích truyền vào đám rối Auerbach, các sóng nhu động đi đến gần hậu môn ức chế cơ vòng làm cơ này giãn ra.
Nếu lúc đó, cơ vân cũng giãn ra một cách có ý thức thì sẽ xảy ra động tác đại tiện. Nhưng phản xạ nội sinh thường yếu và phải được tăng cường bằng phản xạ ngoại sinh gọi là phản xạ tống phân phó giao cảm.
+ Phản xạ tống phân phó giao cảm: khi dây thần kinh đến trực tràng bị kích thích, các tín hiệu được truyền vào đoạn cùng tủy sống, rồi theo các sợi phó giao cảm trong dây thần kinh mu đến đại tràng xuống, đoạn sigma, trực tràng và hậu môn để làm tăng các sóng nhu động và giãn cơ vòng hậu môn.
Kết quả là phản xạ nội sinh từ một phản xạ yếu, không có hiệu quả thành một quá trình tống phân mạnh. Các tín hiệu thần kinh từ tủy sống còn gây ra các tác dụng khác như hít sâu, đóng thanh môn, co cơ thành bụng để tống phân xuống đồng thời đáy chậu mở xuống dưới kéo cơ vòng hậu môn ra ngoài để tống phân ra.
3. Sự bài tiết ở ruột già
Khi các chất chứa đựng trong dạ dày tiếp xúc với tuyến ruột già thì các tế bào tuyến ruột già sẽ bài tiết chất nhầy có tính kiềm. Các cơ chế thần kinh và hormon không điều hòa sự bài tiết cơ bản này. Các tuyến ruột già không bài tiết men tiêu hóa.
4. Vi khuẩn ở ruột già
Trong ruột non có rất ít vi khuẩn, nhưng trong ruột già hệ vi khuẩn rất phong phú:Escherichia coli, Enterobacter aerogenes, Bacteroides fragilis,…
Các vi khuẩn này sử dụng một số chất trong ruột như: vitamin C, cholin, vitamin B12 làm chất dinh dưỡng. Ngược lại, chúng có thể tổng hợp nên một số chất khác như: vitamin K, acid folic, các vitamin nhóm B.
Ngoài ra các vi khuẩn ruột cũng tạo ra một số chất khác như: NH3, histamin, tyramin… từ các acid amin còn sót lại.
5. Thành phần của phân
Khối lượng phân bình thường khoảng 100 – 200 gam/ngày gồm 75% là nước, các chất xơ không tiêu hoá được của thức ăn, một số acid béo, một ít protein, các muối khoáng, sắc tố mật, các tế bào biểu mô của ruột bị bong ra, các loại vi khuẩn…
Phân thường có màu nâu, đó là màu của các sản phẩm thoái hoá từ bilirubin như stercobilin, urobilin. Tuy nhiên, màu của phân có thể thay đổi tuỳ theo thức ăn.
Phân có mùi hôi đặc hiệu do các sản phẩm thoái hoá bởi vi khuẩn: indol, scatol, mercaptan, sulfua hydro,…
Khi thành phần nước trong phân < 75% sẽ gây ra táo bón.
3. Nguyên nhân gây ra táo bón
1. Do ý thức
Do thói quen đại tiện không đúng giờ giấc, quên đi tiêu làm rối loạn phản xạ mót rặn.
Không chịu đi tiêu. Khi cơ thể đòi hỏi là phải đi tiêu, nhưng vì nhiều lý do khác nhau, bệnh nhân cố tình nhịn không đi. Chẳng hạn một số người không muốn dùng cầu tiêu công cộng, hay lo làm việc cố nhịn, thay đổi môi trường sống (công tác, du lịch)…
Khi phân ở hậu môn tạo cảm giác muốn đi tiêu. Nhịn hoài dần dần trở thành một thói quen. Dần dần hậu môn sẽ quen “tật” và khi tới lúc cần đi tiêu, họ quên cảm giác đó, lâu dần trở thành táo bón mạn tính.
2. Chế độ dinh dưỡng thiếu cân đối
Thức ăn thiếu chất xơ. Chất xơ có nhiều trong các rau củ quả, một số loại chất xơ không bị tiêu hóa sẽ giúp làm phân mềm và không cứng, làm tăng nhu động ruột. Bình thường, chúng ta cần 30 – 40 g chất xơ trong khẩu phần ăn mỗi ngày.
Thiếu chất xơ trong chế độ ăn thường gặp ở những người có thói quen dùng đồ ăn nhanh, ăn nhiều các loại thịt, trứng, sữa và sản phẩm từ sữa; người cao tuổi ngại ăn đồ ăn có nhiều chất xơ do không nhai nuốt được dễ dàng.
Thiếu nước cho cơ thể. Sử dụng đồ uống có chất kích thích như cà phê, rượu, bia…
Xem thêm: Dinh dưỡng cho người bị táo bón
3. Thiếu vận động
Do cuộc sống thiếu vận động: xem TV, hội họp, semimar, đặc tính nghề nghiệp…lượng phân sẽ bị dồn ứ. Hệ tiêu hóa không có sự hoạt động, không có nước trong phân khiến phân cứng rắn, đường ruột bị khô. Nhu động ruột bị giảm, hoạt động kém đi, do đó nó sẽ khó khăn trong việc đẩy phân ra ngoài gây táo bón.
Do suy nhược: những người già, suy nhược, mắc bệnh mạn tính phải nằm lâu,… làm nhu động ruột và trương lực các cơ thành bụng giảm gây nên táo bón.
4. Táo bón có nguồn gốc dạ dày – ruột
Khi thần kinh ở ruột, thần kinh nội tạng, tủy sống, não bị tổn thương gây táo bón do rối loạn thần kinh thực vật.
Rối loạn tâm thần: lo lắng, trầm cảm không để ý đến đại tiện, mất phản xạ mót rặn.
Sự bất thường của các cơ quan:
- Khối u trực tràng, đại tràng…làm cản trở đường đi của phân.
- Trĩ và nứt hậu môn: mỗi lần đại tiện rất đau, người bệnh không dám đại tiện và gây nên táo bón.
- Hẹp trực tràng và hậu môn, di chứng của bệnh nhiễm khuẩn vùng hậu môn trực tràng.
- Phụ nữ có thai, nhất là những tháng cuối, thai to đè vào trực tràng.
Rối loạn chức năng ruột: màng nhày ruột, cơ.
5. Rối loạn chuyển hóa, rối loạn nội tiết
Đái tháo đường:
- Khi đường huyết quá cao sẽ được thận loại ra ngoài. Ðể hoàn thành công việc này, thận cần nhiều nước, do đó bệnh nhân đái tháo đường đi tiểu nhiều, nước trong cơ thể giảm, đưa tới táo bón.
- Ðường huyết cao cũng làm tổn thương mạch máu ở ruột và dây thần kinh kiểm soát nhu dộng ruột, trì hoãn đẩy phân ra ngoài.
- Những bệnh nhân đái tháo đường thường bị khống chế rất chặt chẽ về chế độ ăn uống. Họ ăn quá ít nên khó có thể tác động và kích thích sự vận động của ruột.
Suy thận: khi đó thận không thực hiện được đầy đủ chức năng của nó, gây rối loạn bài tiết nước và điện giải dẫn đến táo bón.
Giảm kali máu: sẽ dẫn đến giảm trương lực cơ. Nếu nhẹ gây liệt ruột cơ năng, gây chướng bụng, táo bón. Nếu nặng hơn sẽ gây nhược cơ toàn thân, loạn nhịp tim và có thể tử vong.
Nhược giáp hay tuyến giáp hoạt động kém: làm giảm nhu động ruột do giảm sức co bóp của cơ trơn thành ruột và phản xạ mót rặn.
Phụ nữ mang thai: nồng độ estrogen và progesteron cao trong quá trình mang thai cũng gây táo bón.
Bài tiết quá mức glucagon: glucagon ức chế mạnh phản xạ dạ dày ruột. Do đó, làm giảm khả năng vận động của ruột nên gây táo bón.
Tham khảo: Táo bón đi cầu ra máu
6. Táo bón do thuốc
Các thuốc gây táo bón:
- Thuốc ho và giảm đau opioid (codein,oxycodon, morphin)
- Thuốc kháng cholinergic (atropin, scopolamin)
- Thuốc chẹn kênh calci (verapamin (11%), diltiazem)
- Thuốc lợi tiểu
- Thuốc ức chế HMC – CoA (statin)
- Thuốc trị parkinson (levodopa, bromocriptin)
- Thuốc trị đau dạ dày (sucralfat, nhôm hydrocid, calci carbonat)
- Thuốc chống trầm cảm (thuốc chống trầm cảm 3 vòng, IMAO, lithium)
- Thuốc đối kháng α-adrenegic (clonidin, guanabenz, guafacin)
- Thuốc nhuận tràng kích thích (lạm dụng)
- Thuốc an thần
- Kim loại (bismuth, sắt, kim loại nặng)
4. Điều trị táo bón
1. Điều trị không dùng thuốc
Thay đổi sang nếp sống lành mạnh
Uống nhiều nước: khoảng 1,5 – 2 lít (40ml/kg cân nặng). Nếu lao động thể lực trong điều kiện nóng ẩm, những ngày mùa đông có độ ẩm thấp, phụ nữ đang cho con bú, người đang trong tình trạng sốt cần uống nước nhiều hơn.
Thức ăn đa dạng, có nhiều chất xơ: rau xanh, hoa quả, trái cây khô, hạt ngũ cốc; ăn các chất lâu tiêu như bánh mỳ đen, gạo lức… Các thức ăn này chứa nhiều chất xơ và chất pectin tạo điều kiện thuận lợi cho các chủng vi khuẩn có lợi trong đường ruột phát triển.
Ngoài ra, các chất này làm tăng khối lượng phân nên kích thích lên thành ruột, gây tăng nhu động ruột và phản xạ mót rặn. Nên ăn một cốc sữa chua trước khi ngủ để cải thiện số lượng vi khuẩn có lợi trong ruột.

Tập thói quen đi đại tiện 1 lần/ngày, đi đúng giờ. Khi đã có cảm giác muốn tiêu thì không được nhịn. Không rặn khi đi đại tiện để tránh các biến chứng như trĩ, nứt thành hậu môn.
Kiêng ăn các thức ăn tinh chế như cháo, súp đặc (khoai tây, cà rốt nghiền…), các thức ăn nhanh (fast food), các thức ăn nóng, các chất kích thích như hạt tiêu, ớt cay, nước chè đặc, ca cao, rượu nho đỏ. Hạn chế uống rượu, cà phê, hút thuốc.
Vận động cơ thể
- Tập thể dục, chơi thể thao.
- Vận động nhẹ nhàng: 15-20 phút đi bộ mỗi ngày.
- Massage bụng theo chiều kim đồng hồ trong vòng 5-10 phút/ngày.
2. Điều trị táo bón bằng thuốc tây
Sau khi điều trị không dùng thuốc 2 – 3 tuần, tình trạng táo bón không cải thiện, tiến hành sử dụng các thuốc nhuận tràng nhưng vẫn kết hợp thay đổi lối sống.
Các nhóm thuốc nhuận tràng:
- Nhóm nhuận tràng tạo khối.
- Nhóm nhuận tràng thẩm thấu.
- Nhóm nhuận tràng kích thích.
- Nhóm nhuận tràng làm mềm phân.
- Nhóm nhuận tràng làm trơn.
3. Điều trị táo bón có nguồn gốc dạ dày ruột
Rối loạn thần kinh: điều trị triệu chứng bằng các dung dịch tẩy xổ.
Tâm lý (stress, trầm cảm): tư vấn, tìm nguyên nhân. Nếu cần thiết mới sử dụng thuốc nhuận tràng.
Sự bất thường của các cơ quan (ung thư, hẹp ruột,…): xử lý cục bộ.
Rối loạn chức năng ruột: chưa có điều trị đặc hiệu.
3. Điều trị táo bón có nguồn gốc từ rối loạn chuyển hóa, rối loạn nội tiết
Điều trị rối loạn chuyển hóa/nội tiết, cung cấp các chất bổ sung khi cần thiết.
4. Điều trị táo bón có nguyên nhân do thuốc
Chuyển nhóm thuốc hoặc ngưng sử dụng thuốc.
Xem thêm:
Theo Dược sỹ Phan Thị Thanh Nhàn
Gửi câu hỏi cho chuyên gia